Gần đây, thông tin lao động định cư Mỹ diện EB-3 rộ lên cùng với sự xuất hiện của nhiều công ty tư vấn, môi giới dịch vụ này. Bằng những lời quảng cáo đầy thuyết phục của nhân viên tư vấn, một số khách hàng tưởng rằng giấc mơ Mỹ sẽ không còn xa vời.
Định cư Mỹ diện EB3 là gì?
Qua bối cảnh, EB3 là viết tắt của Employment-Based Third category, hoặc là Visa Theo Diện Tài Trợ Việc Làm dạng 3 – một khái niệm đã tồn tại lâu dài trong luật di trú Mỹ, và là một cách lấy thẻ xanh khi được sử dụng đúng cách. Tài trợ việc làm trong luật di trú Mỹ được chia thành nhiều loại, với Visa Theo Diện Tài Trợ Việc Làm dạng 3 (EB-3) dành tài trợ cho các đối tượng : Nghề nghiệp đòi hỏi ít hơn hai năm đào tạo hoặc kinh nghiệm (lao động phổ thông). Đây là tâm điểm chính của các chương trình EB-3 được quảng bá tại Việt Nam; hoặc là có ít nhất hai năm kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn (công nhân có tay nghề); hoặc là có bằng cử nhân.

Quy trình tài trợ việc làm theo thể loại EB-3
Hồ sơ “PERM” được xử lý và nộp bởi nhà tuyển dụng cho Bộ Quy Chế Lao Động Mỹ. PERM (Program Electronic Review Management) là một chương trình của Bộ Quy Chế Lao Động Mỹ dành cho việc xin giấy phép lao động. Quá trình nộp hồ sơ PERM cần nhà tuyển dụng Mỹ sử dụng các phương pháp tuyển dụng khác nhau để tìm công nhân hoặc ứng cử viên là người Mỹ tiềm năng cho vị trí này. Điều kiện này được đưa ra do mục đích chính của Bộ Quy Chế Lao Động Mỹ là để đảm bảo rằng người Mỹ (công dân Mỹ) được ưu tiên cho công việc. Sau khi quá trình tuyển dụng được hoàn thành tại Mỹ, nếu nhà tuyển dụng cho thấy rằng họ không thể tìm được công nhân Mỹ nào có trình độ và khả năng tối thiểu hoặc sẵn sàng cho vị trí đó, Bộ Quy Chế Lao Động Mỹ sẽ xác nhận và chấp thuận hồ sơ PERM. Nếu các đơn vị tuyển dụng nhận được hồ sơ xin việc từ các cá nhân tại Mỹ sau khi đăng báo tuyển dụng nhưng không xem xét và phỏng vấn những ứng cử viên Mỹ, hoặc không xác nhận đã nhận được các hồ sơ xin việc tại Mỹ với Bộ Quy Chế Lao Động Mỹ, các công ty tuyển dụng và tất cả những người tham gia vào quá trình này có thể phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Bước thứ hai, cũng được thực hiện bởi các nhà tuyển dụng, là nộp đơn xin thị thực nhập cư theo việc làm cho Sở Di Trú Mỹ. Bước này là hồ sơ I-140, đơn nhập cư cho công nhân người nước ngoài và đây là lúc nhà tuyển dụng phải chứng minh rằng:
Ứng cử viên nộp đơn có đủ trình độ cho vị trí đang tuyển dụng của nhà tuyển dụng trong suốt thời gian xử lý hồ sơ PERM; và
Nhà tuyển dụng có khả năng chi trả mức lương đưa ra theo hồ sơ PERM nộp cho Bộ Quy Chế Lao Động Mỹ. Không trong bất cứ trường hợp nào người lao động có thể đề nghị việc hoàn trả phần lương của họ lại cho nhà tài trợ.
Cuối cùng, bước thứ ba là phần nộp đơn xin thẻ xanh / thị thực nhập cư bởi người lao động nước ngoài. Quan trọng hơn, loại tài trợ việc làm này cũng tuỳ thuộc vào giới hạn số lượng thẻ xanh hàng năm chia theo vùng. Đối với công dân Việt Nam, chỉ có những hồ sơ EB-3 PERM đã nộp trước ngày 01 tháng 01 năm 2016 có thể nộp đơn xin thành thường trú nhân trong tháng 03 năm 2016. Trong khi đó, cho thể loại như EB-5, hiện giờ không có hồ sơ tồn đọng cho người Việt Nam (và vì vậy không tùy thuộc vào số lượng visa theo quy định ).
Thế nào là một nhà tuyển dụng tại Mỹ?
Đối với chương trình định cư Mỹ EB3, nhà tuyển dụng tại Mỹ rất quan trọng, họ sẽ là đơn vị bảo lãnh và cung cấp cho bạn một công việc toàn thời gian.
Để tuyển được lao động nước ngoài, nhà tuyển dụng tại Mỹ phải chứng minh được với Bộ Lao động Mỹ rằng họ đã trải qua một quá trình tuyển dụng rộng rãi và không thành công với thị trường lao động tại Mỹ, họ không thể tìm thấy một người lao động trong nước nào có thể đảm nhận được vị trí đang cần tuyển.

Công việc đang cần tuyển vẫn phải đang trong quá trình tuyển dụng tại Mỹ và thời điểm bắt đầu tuyển dụng phải trước thời điểm người lao động được thuê. Công việc giao cho người lao động phải chính xác, rõ ràng như thỏa thuận ban đầu và không có những yêu cầu quá mức cho phép của luật lao động.
Nhà tuyển dụng phải có đủ điều kiện và khả năng tài chính để sử dụng lao động nước ngoài với công việc toàn thời gian và lâu dài. Mức lương trả cho lao động nước ngoài phải tương đương với mức lương của lao động trong nước cho cùng một vị trí công việc, thời gian và địa điểm làm việc.
Đơn xin di trú diện ưu tiên 3 (EB3) thông thường phải kèm theo chứng nhận lao động cá nhân, được phê duyệt bởi Bộ Lao động Mỹ theo mẫu ETA-9089. Trong một số trường hợp, đơn này sẽ được nộp lên Sở Nhập tịch và Di trú Mỹ (USCIS) kèm theo mẫu ETA-9089 không cần công chứng để xem xét như là Phụ Lục A, Nhóm I.
Quy trình của nhà tuyển dụng tại Mỹ
Bước đầu tiên trong quy trình thực hiện hồ sơ định cư Mỹ EB3 là nhà tuyển dụng/ người nộp đơn phải nộp đơn I-140 (Kèm giấy chứng nhận lao động).
Theo đó, nhà tuyển dụng phải chứng minh khả năng chi trả lương đã đề xuất tính từ ngày ưu tiên của giấy chứng nhận bằng những giấy tờ sau:
Báo cáo thường niên.
Tờ khai hoàn thuế thu nhập liên bang.
Báo cáo tài chính đã kiểm toán.
Quy trình thực hiện hồ sơ EB3

Đây là quy trình thực hiện hồ sơ EB3, dành cho 2 đối tượng: Đương đơn đang ở Việt Nam (ngoài nước Mỹ) và đương đơn đang ở Mỹ.
Thân nhân của người sở hữu visa định cư Mỹ EB3
Vợ/chồng của người sở hữu visa định cư Mỹ diện EB3 có thể:
Định cư Mỹ theo diện E34 (vợ/chồng của “lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ” hoặc “chuyên gia”)
Định cư Mỹ theo diện EW4 (vợ/chồng của “các lao động khác”)
Nộp đơn xin cấp giấy phép lao động tại Mỹ (EAD) – Đối với người sở hữu visa định cư Mỹ EB3 cùng vợ/chồng đang nộp đơn xin thẻ xanh.
Con cái chưa thành niên của người sở hữu visa định cư Mỹ diện EB3 có thể:
Định cư Mỹ theo diện E35 (con cái của “lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ” hoặc “chuyên gia”)
Định cư Mỹ diện EW5 (con cái của “các lao động khác”)
Chương Trình EB-3: Điều gì là hợp pháp và điều gì không
Trong những chuyến đi tới Việt Nam suốt năm năm qua, tôi thấy được chương trình EB-5 ngày càng trở nên phổ biến và được xem như một cầu nối cho những người Việt có thể tự tài trợ cho mình để có được thẻ xanh Mỹ. Và thực tế cho thấy, Việt Nam hiện đứng thứ hai trong việc sử dụng visa EB-5 trên thế giới.
Cho người lao động và các nhà tuyển dụng việc làm sử dụng các chương trình này, người lao động tiềm năng thường thanh toán chi phí nhận thẻ xanh EB-3 của họ ở bước thứ ba và bước cuối cùng, và trong đó có bao gồm một cuộc phỏng vấn xin visa nhập cư tại thành phố Hồ Chí Minh. Rất nhiều trường hợp các ứng viên nghĩ rằng hồ sơ đã thông suốt hết cho đến khi họ đi phỏng vấn và biết được lãnh sự quán đã xem xét và xác định rằng quá trình này đã không được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, và rằng họ đang bị từ chối thẻ xanh trên cơ sở gian lận. Lãnh sự quán có thể theo dõi các xu hướng trong những hồ sơ, và khi họ quan sát một số lượng lớn hồ sơ cho cùng một vị trí việc làm đang được xem xét tại Lãnh sự quán (ví dụ, làm người hái táo tại một trại gà, hoặc làm trong nhà hàng thức ăn nhanh), họ sẽ xem xét lại tất cả các hồ sơ một cách khắt khe để xác định bất kỳ gian lận có thể phát sinh, vì rất ít có cơ may về sự trùng lắp trong loại lao động không có tay nghề EB-3.
Sau đó, Chính phủ Mỹ, trong đó bao gồm Bộ Quy Chế Lao Động, Sở Di Trú, và Bộ Ngoại Giao, sẽ làm việc cùng nhau để điều tra về nhà tuyển dụng cho các bộ hồ sơ cũng như các bên liên quan trong quá trình, trong đó bao gồm cả người nộp đơn. Nếu sau đó xác định những vị trí việc làm đưa ra bởi nhà tuyển dụng là không thành thật, tất cả các hồ sơ thường trú nhân cho nhà tuyển dụng đó sẽ bị từ chối. Vấn đề rủi ro là thông thường người nộp đơn không nhận thức được hậu quả của việc nộp một đơn cử “sai sự thật,” hoặc “dối trá,” cho chính phủ Mỹ, và khi chữ ký họ trên các giấy tờ di trú của họ, họ đã làm một xác nhận với chính phủ về tính xác thực của các thông tin trong hồ sơ. Sự từ chối trên cơ sở gian lận không chỉ ngăn cản việc nhận thẻ xanh qua chương trình EB-3, mà còn có khả năng ngăn chặn việc nhập cảnh vào Mỹ bằng bất kỳ thị thực tạm thời nào hoặc trở thành thường trú nhân trong tương lai.
Nghi Phương